Xây dựng Công nghiệp quốc phòng Việt Nam tự chủ, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng15/12/2020 10:20:47 AMCNQP&KT - “Tự chủ, tự cường” và “hiện đại, lưỡng dụng” là những tiêu chí phấn đấu để xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng (CNQP) trong giai đoạn từ nay tới năm 2030 và các năm tiếp theo. Đây là những tiêu chí được đề cập trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng cũng như được xác định rõ trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng có đề cập đến một nội dung rất quan trọng đối với ngành CNQP, đó là: “Tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao. Nghiên cứu, sản xuất được một số chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại cần thiết cho phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là các loại vũ khí chiến lược”. Trước đó, trong Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025, cũng đã xác định: “Từng bước xây dựng Công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước”. Đây là định hướng có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Để triển khai thực hiện, cần thống nhất nhận thức chung, trong đó đặc biệt là nội hàm của 2 tiêu chí: “tự chủ, tự cường” và “hiện đại, lưỡng dụng”. XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG “TỰ CHỦ, TỰ CƯỜNG” Xây dựng và phát triển CNQP của bất kỳ quốc gia nào đều xuất phát từ mục tiêu độc lập, tự chủ về vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) nhằm đáp ứng nhu cầu quốc phòng - an ninh (QP-AN). Tuy nhiên, quan điểm về “tự chủ, tự cường” trong lĩnh vực này và năng lực thực tế để đạt được mục tiêu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Đó là nguyên nhân vì sao trên thế giới có rất nhiều mô hình phát triển CNQP khác nhau. Sự lựa chọn mô hình này hay mô hình khác, hoặc kết hợp tối ưu nhiều phương thức khác nhau để có được khả năng “tự chủ, tự cường” theo cách riêng phụ thuộc vào ý chí chính trị, mục tiêu, điều kiện, hoàn cảnh, kinh nghiệm lịch sử, truyền thống văn hóa… của mỗi quốc gia. Dây chuyền sản xuất súng bộ binh thế hệ mới của Nhà máy Z111. Ảnh: QUANG THÁI Đối với Việt Nam, chỉ có một số cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời cận đại và hiện đại mới ghi nhận sự viện trợ quân sự từ nước ngoài. Trước đó, suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đều dựa vào sức mình để làm ra vũ khí chống ngoại xâm. Từ đó đã định hình ý chí “tự chủ, tự cường” như là một phần không tách rời của bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa quân sự nói riêng. Trong thời đại mới, truyền thống này phải tiếp tục được kế thừa và phát huy để xây dựng và phát triển tiềm lực CNQP với những nội hàm chủ chốt sau đây: Trước hết, “tự chủ, tự cường” về CNQP phải được xây dựng trên nền tảng của đường lối độc lập, tự chủ của quốc gia về QP-AN. Chiến lược xây dựng và phát triển CNQP Việt Nam phải xuất phát từ đường lối quốc phòng toàn dân, phải chủ động tạo ra những chủng loại VKTBKT đáp ứng yêu cầu độc đáo, sáng tạo, bí mật, bất ngờ của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân.
Yếu tố quyết định khả năng “tự chủ, tự cường” về CNQP chính là nội lực sức mạnh tổng hợp của quốc gia được thể hiện bằng khả năng huy động về tài chính, đầu tư, hạ tầng kỹ thuật, tiềm lực khoa học - công nghệ… và các thể chế pháp lý, chủ trương, chính sách, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực… Đặc biệt, trong điều kiện Việt Nam còn đòi hỏi phải đẩy mạnh kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, huy động thành tựu của nền kinh tế quốc dân phục vụ sản xuất VKTBKT. Một nền CNQP có thực sự “tự chủ, tự cường” hay không còn liên quan tới khả năng sẵn sàng chuyển trạng thái trong những tình huống cấp bách, khẩn trương, nhất là tình huống chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến. Do đó, trong đầu tư phát triển CNQP thời bình phải chú trọng tới công tác chuẩn bị động viên công nghiệp, chuẩn bị sớm các yếu tố bảo đảm khả năng duy trì sản xuất vũ khí ngay cả trong điều kiện chiến tranh hoặc khi bị bao vây, cấm vận, phong tỏa… Khi có chiến tranh xảy ra thì bên phát động chiến tranh cũng luôn tìm cách chia cắt lãnh thổ, tấn công huỷ diệt tiềm lực CNQP của đối phương. Đối với CNQP Việt Nam, “tự chủ, tự cường” là phải có khả năng tồn tại trong thời chiến. Do đó, phải quy hoạch thế bố trí các cơ sở nghiên cứu, chế tạo, sản xuất vũ khí tại các hậu phương chiến lược, bảo đảm duy trì nguồn cung cấp VKTBKT tại chỗ cho tác chiến tại các khu vực phòng thủ. Đồng thời, phải dự tính các giải pháp an ninh, bảo mật, bảo vệ tiềm lực CNQP và gắn kết, đan xen, lồng ghép tiềm lực CNQP với công nghiệp quốc gia. ![]() Một số sản phẩm quốc phòng do các nhà máy CNQP nghiên cứu chế tạo, trưng bày tại Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ X (tháng 6/2020). Ảnh: TUẤN MINH “Tự chủ, tự cường” về CNQP đặt ra yêu cầu phải xây dựng một cơ cấu đồng bộ, phân công chuyên môn hóa hợp lý, bao hàm từ năng lực nghiên cứu thiết kế vũ khí, làm chủ công nghệ cốt lõi, công nghệ nền, tự đảm bảo được vật tư, nguyên liệu sản xuất. Ví dụ, lĩnh vực chế tạo đạn dược cho Lục quân là một thế mạnh nổi trội của CNQP nước ta, được thể hiện không chỉ ở danh mục sản phẩm đa dạng mà còn ở năng lực tự chủ trong khâu nghiên cứu, khả năng phát triển các dây chuyền, hình thành chuỗi sản xuất khép kín từ khâu nguyên liệu đầu vào cho tới tổng lắp cuối cùng. Đặc biệt là năng lực làm chủ những công nghệ nhạy cảm nhất, như: chế tạo thuốc phóng, thuốc nổ, ngòi, hỏa cụ, liều phóng… “Tự chủ, tự cường” về CNQP không có nghĩa là tự ràng buộc mình bằng mô hình khép kín, biệt lập, tự cung, tự cấp... Trong bối cảnh hiện nay, cần tranh thủ những lợi thế mới của đất nước trong các mối quan hệ hợp tác đa phương về chính trị, kinh tế, quốc phòng... để thúc đẩy hội nhập quốc tế về CNQP, kết nối vào thị trường quốc tế về vũ khí và công nghệ quân sự. Hướng đi này cho phép chủ động lựa chọn đối tác có lợi nhất cho CNQP Việt Nam, giảm bớt sự lệ thuộc, đa dạng hóa về nguồn lực và giải pháp đầu tư phát triển CNQP. Bên cạnh đó, thời gian tới, cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hợp tác, liên doanh, liên kết, nắm chắc luật pháp quốc tế… thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm quân sự “Made in Vietnam”. “HIỆN ĐẠI VÀ LƯỠNG DỤNG” TRONG XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG Hiệu quả của quá trình phát triển CNQP được đánh giá bằng nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó yếu tố “hiện đại và lưỡng dụng” luôn gắn kết chặt chẽ, không tách rời nhau. Đặc biệt là trong xu hướng hiện đại hóa CNQP trên thế giới đang chịu sự tác động, chi phối đồng thời bởi 2 cuộc cách mạng: Cách mạng về công nghệ quân sự và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Đối với CNQP Việt Nam, yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong thời kỳ mới cùng với những cơ hội và thách thức của 2 cuộc cách mạng nêu trên đã, đang và sẽ đặt ra yêu cầu có ý nghĩa chiến lược là phải “vượt ngưỡng phát triển trung bình”. Tức là phải vươn lên từ trình độ thiết kế, chế tạo vũ khí “cơ khí” là chủ yếu tiến tới các loại vũ khí mới cho các quân, binh chủng, vũ khí công nghệ cao, vũ khí có điều khiển và vũ khí tích hợp hệ thống… Nếu như công nghệ chế tạo súng và đạn dược bộ binh có tính chuyên dụng cao và chỉ có thể sử dụng duy nhất trong lĩnh vực quân sự, thì công nghệ chế tạo vũ khí công nghệ cao lại có tính lưỡng dụng rất nổi trội. Công nghệ trong tên lửa, ra-đa, máy bay quân sự rất tương đồng với công nghệ chế tạo tên lửa đẩy vệ tinh, ra-đa khí tượng, hàng không, hàng hải, máy bay dân dụng… Chính vì thế, trong quá trình “vượt ngưỡng phát triển trung bình”, tiêu chí “hiện đại hóa” không tách rời với các lợi ích “lưỡng dụng hóa” CNQP.
Tác động của CMCN 4.0 đối với CNQP được thể hiện thông qua các đặc thù lưỡng dụng của nó liên quan tới năng lực công nghệ, đội ngũ, hạ tầng, sản phẩm, thị trường... Thông thường, những thành tựu mới nhất của công nghệ quân sự được chuyển giao để phục vụ dân sinh sẽ được thử nghiệm ngay trong hoạt động sản xuất kinh tế của CNQP. Ngược lại, các sáng tạo công nghệ mới trong CMCN 4.0 muốn được sử dụng để chế tạo VKTBKT cũng không thể thiếu sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của các viện nghiên cứu và nhà máy CNQP. Nói cách khác, CNQP có vai trò như một trong những cầu nối để thúc đẩy sự tương tác giữa CMCN 4.0 và nhiệm vụ QP-AN. Khi toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp của quốc gia phát triển theo hướng nền tảng công nghệ số thì CNQP không thể tụt hậu, đứng nguyên tại chỗ. Đặc trưng cơ bản của CMCN 4.0 là thay đổi trên cơ sở tích hợp, hội tụ, kết nối tất cả các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, là sự hợp nhất nhiều chuyên ngành công nghệ tiên tiến trên các thiết bị có kết nối tốc độ cao, có khả năng giao tiếp, hiểu và làm công việc tương tự như con người. Từ đó, hình thành một phương thức sản xuất mới dựa trên nền tảng hệ thống kết hợp thực-ảo (không gian số)… Ứng dụng CMCN 4.0 vào lĩnh vực CNQP không thể dừng lại ở việc hiện đại hóa riêng lẻ từng chủng loại VKTBKT mà phải hướng tới tích hợp hệ thống nhiều loại vũ khí đã được hiện đại hóa để tạo ra hiệu quả cộng hưởng, đột phá về tính năng của toàn bộ hệ thống mới - hệ thống thông minh trên cơ sở tích hợp nhiều sản phẩm vũ khí thông minh. Trong khi đó, muốn làm ra “vũ khí thông minh” thì phải đạt được các tiêu chí thông minh về công nghệ, nhân lực, quản trị… Xây dựng và phát triển “CNQP trên nền tảng công nghệ số” là mục tiêu dài hạn và hướng tới 5 nội dung chủ yếu sau: Phát triển thành công một số mô hình “Sản phẩm vũ khí thông minh” và “Nhà máy CNQP thông minh”; nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, phát triển hạ tầng công nghệ số và các lĩnh vực công nghệ cao, lưỡng dụng; chuyển đổi số đối với hệ thống quản lý ngành CNQP và quản trị kinh doanh tại các doanh nghiệp; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; kết nối phân công chuyên môn hóa trong nước, quốc tế và thúc đẩy xuất khẩu vũ khí. Lộ trình thực hiện mục tiêu nêu trên phải tính tới thực trạng trình độ công nghệ và những hạn chế, bất cập đặc thù của CNQP Việt Nam. Cụ thể, đặc điểm đa tầng về trình độ công nghệ còn được phản ánh trong cơ cấu nguồn nhân lực, trong đó tỷ lệ nhân lực chất lượng cao còn thấp đang là cản trở rất lớn để thực hiện các mục tiêu phát triển lâu dài. Để khắc phục phải xây dựng đề án chiến lược dài hạn với những bước đi phù hợp, khả thi. Không thể có công thức chung cho mọi đơn vị CNQP mà phải chấp nhận “một lộ trình đa tốc độ” tương xứng với xuất phát điểm “đa trình độ” hiện nay. Điều đó có nghĩa là phải có trọng tâm, trọng điểm đột phá của một số mô hình đi nhanh hơn và đi thẳng lên trình độ 4.0. Đối với các đơn vị khác, tùy theo nhu cầu và năng lực, có thể đề ra mục tiêu khả thi hơn là tập trung hiện đại hóa theo hướng 4.0 đối với một số công đoạn hay phân xưởng sản xuất cụ thể… Để “vượt ngưỡng phát triển trung bình” phải có quyết tâm chính trị cao, kiên định chiến lược dài hạn và có nhiều giải pháp thực thi hiệu quả để đạt được tiêu chí “hiện đại và lưỡng dụng” trong cả 3 yếu tố quan trọng nhất là tiềm lực khoa học - công nghệ (KHCN), nhân lực và thể chế. Về tiềm lực KHCN: Cần ưu tiên ứng dụng có hiệu quả các thành tựu, tiến bộ KHCN, chủ động tham gia CMCN 4.0; thực hiện đi tắt đón đầu trong một số lĩnh vực công nghệ quân sự và lưỡng dụng đặc thù cho phép tạo bước ngoặt về năng lực thiết kế, chế tạo các sản phẩm có tính đột phá về tính năng kỹ, chiến thuật. Đồng thời, tiếp tục hiện đại hóa các dây chuyền công nghệ, các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm và hạ tầng, phương tiện kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, thiết kế và thử nghiệm trong ngành CNQP. Về nhân lực: Công tác thu hút nhân tài vào làm việc trong CNQP đang là một điểm nghẽn cản trở quá trình “vượt ngưỡng phát triển trung bình”. Trong thời gian tới, cần tập trung đổi mới các chế độ, chính sách đãi ngộ và trọng dụng nhân tài. Bên cạnh việc đãi ngộ, tôn vinh, động viên... còn phải tin cậy và giao nhiệm vụ xứng tầm, có định hướng chiến lược và cơ chế đảm bảo nguồn lực ổn định, dài hạn để các nhà khoa học tâm huyết, gắn bó với CNQP; bảo đảm điều kiện, phương tiện nghiên cứu và cơ hội trải nghiệm thực tiễn cho các nhà khoa học; tạo cơ hội cho các nhà khoa học phát triển chuyên môn, cập nhật thông tin KHCN mới ở trong và ngoài nước… Về thể chế: Cần đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm và các thể chế liên quan tới CNQP, như: tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, quy hoạch thế bố trí... theo hướng tiên tiến, hiện đại, hội nhập, tinh gọn, năng động. Mô hình doanh nghiệp CNQP sắp tới phải được tái cơ cấu để thích ứng với các yêu cầu gắn kết phân công chuyên môn hóa, cơ chế quản lý của công nghiệp quốc gia, hội nhập quốc tế và đủ sức cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế. “Tự chủ, tự cường” và “hiện đại, lưỡng dụng” là tiêu chí phấn đấu để xây dựng và phát triển CNQP trong giai đoạn từ nay tới năm 2030 và các năm tiếp theo. Việc khẳng định chủ trương này nêu trong Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2015-2020 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI không chỉ là cơ sở để củng cố niềm tin, mà còn đòi hỏi rất nhiều nỗ lực trong khâu triển khai thực hiện trong thời gian tới để CNQP Việt Nam có nhiều đóng góp hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thiếu tướng, PGS, TS. ĐOÀN HÙNG MINH Tổ trưởng Tổ tư vấn 18 - Bộ Quốc phòng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP
|