Đẩy mạnh xây dựng, phát triển Công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới16/09/2020 03:57:06 PMCNQP&KT - 75 năm qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, ngành Quân giới - Công nghiệp quốc phòng (CNQP) đã không ngừng vươn lên, đóng vai trò quan trọng trong sửa chữa, sản xuất, cải tiến, nghiên cứu phát triển vũ khí, trang bị mới, hiện đại phục vụ lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tầm nhìn chiến lược, chỉ 13 ngày sau khi tuyên bố nền độc lập dân tộc, ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập Phòng Quân giới trực thuộc Bộ Quốc phòng (đơn vị tiền thân của Tổng cục CNQP ngày nay), với hai nhiệm vụ chính là thu thập, mua sắm và tổ chức nghiên cứu, sản xuất vũ khí cho lực lượng vũ trang và toàn dân ta đánh giặc. Lịch sử của ngành Quân giới - CNQP Việt Nam đã ghi lại những dấu ấn quan trọng cùng những đóng góp lặng thầm của cán bộ, chiến sĩ, kỹ sư, công nhân, nhân viên các thế hệ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngành Quân giới đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, chế tạo thành công nhiều loại vũ khí có trình độ kỹ thuật cao, như: Bazoka, AT, SKZ, SS... bảo đảm một phần quan trọng vũ khí, đạn dược cho lực lượng vũ trang và nhân dân đánh địch, góp phần cùng cả nước giành những thắng lợi quan trọng, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngành Quân giới đã phối hợp với các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội, cải tiến thành công nhiều loại vũ khí, đặc biệt là vũ khí phòng không, phương tiện rà phá thủy lôi, bom từ trường… cung cấp cho quân dân miền Bắc đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn của đế quốc Mỹ. Các cơ sở kỹ thuật, nhà máy, xí nghiệp quốc phòng đã nghiên cứu, chế tạo và cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài đáp ứng kịp thời các nhu cầu của chiến trường, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, đất nước hòa bình, thống nhất, tiềm lực vật chất kỹ thuật, nhân lực của ngành Quân giới đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, tạo tiền đề chuyển hóa dần từ “Quân giới” sang “Công nghiệp quốc phòng”. Ngành Quân giới - CNQP Việt Nam đã kế thừa và phát huy truyền thống, kinh nghiệm trong phục vụ chiến đấu, thực hiện những điều chỉnh quan trọng để tạo bước phát triển mới về chất. Trong giai đoạn cách mạng mới, vị trí và vai trò của ngành CNQP ngày càng được khẳng định; không những đáp ứng tốt yêu cầu của Quân đội trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước.Đặc biệt là khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn quan tâm chăm lo xây dựng và phát triển CNQP. Bộ Chính trị đã ban hành 3 nghị quyết chuyên đề về xây dựng và phát triển CNQP (Nghị quyết số 05 ngày 20/7/1993, Nghị quyết số 27 ngày 16/6/2003 và Nghị quyết số 06 ngày 16/7/2011). Ngành CNQP đã quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển CNQP và bước đầu đã đạt những thành tựu to lớn. Nhiều dự án quan trọng được triển khai, năng lực nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm phục vụ quốc phòng được mở rộng, nâng cao, để CNQP trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của tiềm lực quốc phòng - an ninh quốc gia, có trình độ kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ mới. Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 16/7/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển CNQP đến năm 2020 và những năm tiếp theo, Tổng cục CNQP đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị, tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng các nội dung về chiến lược xây dựng, phát triển CNQP. Cụ thể, Tổng cục đã tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng Đề án và báo cáo Bộ Chính trị ban hành Kết luận về đẩy mạnh phát triển CNQP, an ninh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Đề án quy hoạch xây dựng và phát triển công nghiệp TL Việt Nam. Tham mưu cho Bộ Quốc phòng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch xây dựng và phát triển CNQP đến năm 2025, tầm nhìn năm 2035; Chương trình mục tiêu xây dựng và phát triển CNQP giai đoạn 2016-2020. Các quy hoạch, chương trình, kế hoạch được ban hành đã xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNQP phù hợp với tình hình mới, là cơ sở rất quan trọng để ngành CNQP triển khai thực hiện, nhất là nhiệm vụ đầu tư tiềm lực CNQP đáp ứng nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang phù hợp với thế bố trí chiến lược trên ba miền Bắc, Trung, Nam. Cùng với đó, từ năm 2016 đến nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng đã được Tổng cục CNQP chủ trì soạn thảo và trình cấp có thẩm quyền ban hành với nội dung theo hướng đổi mới, sáng tạo, khuyến khích phát triển khoa học - công nghệ, ưu tiên các công nghệ lưỡng dụng, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa; hội nhập CNQP với công nghiệp quốc gia và mở rộng phạm vi, đối tượng, thành phần tham gia hoạt động CNQP, tạo hành lang pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện nhiệm vụ cũng như tạo điều kiện cho CNQP phát triển. Bên cạnh đó, tổ chức lực lượng CNQP tiếp tục được kiện toàn, củng cố; công tác đầu tư phát triển tiềm lực CNQP được chỉ đạo triển khai quyết liệt và có nhiều chuyển biến rõ rệt. Trong giai đoạn 2016 - 2020, Tổng cục đã đưa vào khai thác sử dụng nhiều dự án đầu tư thuộc Chương trình xây dựng và phát triển CNQP, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng, năng lực tự chủ trong bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) hiện đại. Đặc biệt, năng lực sản xuất VKTBKT của CNQP đã có chuyển biến rõ nét, hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, góp phần bảo đảm số lượng, chất lượng, đồng bộ trang bị cho huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. CNQP đã tiếp cận và làm chủ công nghệ sản xuất các VKTBKT mới, hiện đại; một số sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tổng cục CNQP đã làm chủ công nghệ sản xuất súng bộ binh thế hệ mới; nâng cao năng lực sản xuất các loại súng nòng trơn, khí tài quang học; đạn pháo và ngòi đạn pháo các loại; cơ bản làm chủ công nghệ chế tạo vũ khí phòng không tầm thấp; hoàn thành các chương trình đóng tàu tên lửa tấn công nhanh, tàu pháo tuần tiễu, chương trình đóng tàu Cảnh sát biển, Kiểm ngư; đang triển khai đóng tàu cứu hộ tàu ngầm đa năng, tàu tuần tra cao tốc... Đồng thời, đã làm chủ công nghệ sửa chữa, bảo dưỡng, tăng hạn nhiều loại vũ khí, khí tài phức tạp, hiện đại. Bên cạnh đó, việc kết hợp giữa sản xuất quốc phòng với kinh tế đã được quan tâm và phát huy hiệu quả cao, nhiều ngành hàng kinh tế tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường phục vụ dân sinh và xuất khẩu (thuốc nổ công nghiệp; đóng và sửa chữa tàu, sản phẩm cơ khí; sản phẩm điện, điện tử, thông tin, viễn thông; các sản phẩm tiêu dùng...), góp phần giữ gìn đội ngũ, có tích lũy để tái đầu tư, đổi mới dây chuyền công nghệ, mở rộng sản xuất và bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống người lao động.
Ngoài ra, trình độ khoa học - công nghệ của các cơ sở CNQP nòng cốt từng bước được nâng lên, năng lực thiết kế VKTBKT, tàu xuồng quân sự được cải thiện. Từ năm 2015 đến nay, Tổng cục CNQP đã thực hiện 296 đề tài nghiên cứu khoa học, với hơn 175 đề tài đủ điều kiện đưa vào sản xuất; đặc biệt, việc triển khai thành công bước đầu các đề án khoa học - công nghệ đã hỗ trợ đắc lực cho công tác nghiên cứu, sản xuất VKTBKT thông minh, hiện đại, thế hệ mới của Quân đội. Từ các kết quả nghiên cứu, nhiềusản phẩm mới đã được đưa vào sản xuất loạt, một số thiết kế tàu quân sự được triển khai đóng mới và trang bị cho các lực lượng trong toàn quân. Đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu cũng có sự phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của công tác nghiên cứu khoa học trong CNQP. Trong những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định, khó dự báo. Trong bối cảnh đó, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng Quân đội hiện đại, bảo đảm tính sẵn sàng chiến đầu cao và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, Tổng cục CNQP xác định tập trung xây dựng CNQP ngày càng hiện đại. Mục tiêu là đến năm 2030, CNQP sẽ được xây dựng, đổi mới, hiện đại hóa cả về tổ chức biên chế, cơ chế quản lý, dây chuyền công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực để bảo đảm năng lực tự chủ về thiết kế, chế tạo VKTBKT, nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự và xây dựng Quân đội hiện đại. Để đạt được mục tiêu nêu trên, Tổng cục CNQP tập trung triển khai thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp như sau: Một là, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, chỉ đạo của Bộ Chính trị về Đề án đẩy mạnh phát triển CNQP, an ninh đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Quy hoạch xây dựng và phát triển CNQP đến năm 2025, tầm nhìn năm 2035; chủ động rà soát để cụ thể hóa, xây dựng các đề án, kế hoạch xây dựng, phát triển CNQP trong thời gian tới phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi; từng bước xây dựng CNQP theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Đề xuất xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng và rà soát, hoàn thiện đồng bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế quản lý, quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển CNQP theo hướng đổi mới, cải cách hành chính, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Hai là, tiếp tục kiện toàn tổ chức lực lượng CNQP; sắp xếp lại các cơ sở CNQP nòng cốt, các viện nghiên cứu theo hướng giảm số lượng, tăng quy mô, gắn nghiên cứu thiết kế với sản xuất, sửa chữa VKTBKT nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quản lý; tập trung các đơn vị sản xuất CNQP về một đầu mối quản lý, tránh trùng lặp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các cơ quan, đơn vị; từng bước hoàn thiện đề án hình thành tổ hợp CNQP nhằm đa dạng hóa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bảo đảm cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP. Ba là, tiếp tục triển khai hiệu quả các dự án đầu tư phát triển CNQP; mở mới các dự án đầu tư sản xuất, sửa chữa các loại VKTBKT thiết yếu; tăng năng lực nghiên cứu, thiết kế của các viện cũng như năng lực đóng mới, sửa chữa tàu quân sự để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đến năm 2025, phấn đấu làm chủ công nghệ sản xuất VKTBKT cho lục quân và cho các lực lượng thực thi pháp luật tại các tuyến biên giới, biển, đảo, các quân, binh chủng... Bốn là, tiếp tục tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm quốc phòng; thực hiện tốt hai khâu đột phá: Nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp và nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo VKTBKT, tập trung vào vũ khí mới, hiện đại; chú trọng nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm có tính lưỡng dụng. Ứng dụng có hiệu quả các thành tựu, tiến bộ khoa học - công nghệ để nâng cao chất lượng, giảm giá thành, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, phát triển sản phẩm thương hiệu Việt Nam. Chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; lựa chọn phát triển lĩnh vực, công nghệ mũi nhọn và các sản phẩm có tính đột phá về khoa học - công nghệ, từ đó tạo bước chuyển biến, đổi mới công nghệ sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa VKTBKT, tạo sự tăng trưởng cả về số lượng, chủng loại mới, có tính năng chiến - kỹ thuật cao và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trên cơ sở các công nghệ đã làm chủ, từng bước chuyển giao công nghệ cho công nghiệp dân dụng, tạo sự lan tỏa, phát triển công nghiệp quốc gia. Năm là, tạo bước chuyển biến quan trọng trong huy động tiềm lực khoa học - công nghệ và công nghiệp quốc gia tham gia xây dựng và phát triển CNQP. Trong đó, tập trung xây dựng cơ chế, chính sách để tạo hành lang pháp lý cho các ngành, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động CNQP; kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng, phát triển CNQP trong chiến lược xây dựng, phát triển của các bộ, ngành, địa phương; triển khai một số dự án liên doanh, liên kết với các cơ sở dân sinh hoặc đầu tư hỗ trợ các cơ sở dân sinh nhằm mục đích phục vụ CNQP. Tiếp tục đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, huy động có hiệu quả các nguồn vốn để đầu tư phát triển CNQP; xây dựng tổ hợp CNQP. Sáu là, đẩy mạnh các chương trình đào tạo và thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao, các chuyên gia giỏi cho xây dựng và phát triển CNQP. Thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho CNQP; tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ chất lượng cao cho những ngành đặc thù, nhất là các chuyên gia đầu ngành, tổng công trình sư; xây dựng cơ chế chính sách và có kế hoạch cụ thể để thu hút nhân tài từ các tổ chức kinh tế - xã hội; các cơ sở nghiên cứu, các viện thiết kế có liên quan và các Việt kiều, chuyên gia nước ngoài có trình độ cao tham gia các chương trình, dự án công nghệ cao của CNQP. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý, chủ trì các cấp; bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý. Rà soát bổ sung, hoàn thiện các chế độ chính sách nhằm bảo đảm quyền lợi vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên quốc phòng và người lao động trong các cơ sở CNQP; chú trọng chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ KHCN có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành, chuyên viên kỹ thuật tay nghề cao, tạo điều kiện thuận lợi để họ yên tâm công tác và cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển CNQP trong thời kỳ mới. Bảy là, mở rộng hợp tác quốc tế để đẩy nhanh việc tiếp cận, tiếp thu, làm chủ công nghệ sản xuất các loại VKTBKT tiên tiến, hiện đại. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ phục vụ sản xuất VKTBKT; trong đó chú trọng hợp tác cùng nghiên cứu phát triển và sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của CNQP với các đối tác nước ngoài. Đồng thời, tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và xây dựng thương hiệu ở cả trong và ngoài nước cho các sản phẩm do CNQP sản xuất; đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm CNQP. Tám là, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức, cơ sở Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên ngành CNQP có bản lĩnh chính trị vững vàng; xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Kế thừa, phát huy truyền thống, kinh nghiệm 75 năm xây dựng và phát triển của ngành Quân giới - CNQP Việt Nam, Tổng cục CNQP tiếp tục phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết, tự lực, chủ động, khoa học, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Quân đội giao phó, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trung tướng, TS. TRẦN HỒNG MINH Chủ nhiệm Tổng cục CNQP
|