Tin tổng hợp

CNQP&KT - Việt Nam có bờ biển dài 3.260km, với hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Bởi vậy, kết hợp phát triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh trong bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ chiến lược mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm, chú trọng.

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời năm 1945, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương kết hợp củng cố quốc phòng với xây dựng hậu phương vững chắc; luôn quan tâm đến công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Người nêu rõ: “Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Đặc biệt, Người cho rằng: “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không?... Nếu mình không lo bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”...

Sau năm 1975, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp nhằm bảo vệ chủ quyền, lợi ích ở Biển Đông; đã có bước đột phá trong việc quản lý, tạo thế đứng chân vững chắc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Hiện nay, Việt Nam đang quản lý nhiều vị trí trọng yếu trên các vùng biển, đảo, nhất là tại quần đảo Trường Sa. Các lực lượng trên biển đã gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh (QP-AN) trên biển, đảo; tổ chức khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; làm dịch vụ sửa chữa, bảo đảm kỹ thuật cho các trang - thiết bị cảng và phương tiện nổi; phát triển dịch vụ bảo vệ các công trình dầu khí, xây dựng các trạm tìm kiếm cứu nạn, ứng phó sự cố tràn dầu; làm dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển và tại các đảo xa bờ; giám sát hoạt động nghề cá, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân vươn khơi bám biển.


Lực lượng Biên phòng tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo.    Ảnh: CTV

Trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường QP-AN, giữ vững chủ quyền biển, đảo. Cụ thể như sau:

Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.

Phát huy sức mạnh tổng hợp là nét đặc trưng trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, nhằm động viên, quy tụ, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống chính trị, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó có chủ quyền biển, đảo.

Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định: “Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người dân Việt Nam”. Nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, chúng ta cần phải phát huy sức mạnh của toàn dân, đấu tranh toàn diện, có chủ trương nhất quán, kế hoạch chỉ đạo tập trung, thống nhất trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng... Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật biển; giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, phù hợp với đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ” của Đảng ta; gắn phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) với tăng cường QP-AN và hoạt động đối ngoại; nâng cao hiệu quả hợp tác, hội nhập quốc tế về biển; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp, chính đáng trên các vùng biển, đảo...

Thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, tăng cường xây dựng các chương trình hỗ trợ ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện cho việc phòng thủ, bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển.

 (Nguồn: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng)

Hai là, phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam xác định: “Xây dựng và phát triển kinh tế biển phải gắn chặt với bảo đảm QP-AN; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân gắn với phát triển kinh tế biển”. Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm 2021-2030 và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 tại Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “Thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm QP-AN, tăng cường xây dựng các chương trình hỗ trợ ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện cho việc phòng thủ, bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển”.

Phát triển kinh tế biển gắn với củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân nhằm tăng cường tiềm lực QP-AN, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Vì vậy, mục đích của sự kết hợp giữa phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân chính là làm cho kinh tế và QP-AN đều mạnh, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đảng ta đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm QP-AN, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển”.


Đảo Trường Sa lớn (huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa).   Ảnh: CTV

Yêu cầu đó phải được triển khai tổ chức thực hiện cụ thể trong quy hoạch tổng thể của quốc gia, kế hoạch phát triển KT-XH, kế hoạch tăng cường lực lượng, tiềm lực, thế trận QP-AN. Trong quy hoạch xây dựng các vùng biển, đảo ở địa bàn chiến lược, cần làm tốt ngay từ khâu thẩm định các khu công nghiệp, kinh tế tập trung, các dự án ven biển, trên đảo; quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với xây dựng thế trận QP-AN, bao gồm các tuyến đường giao thông, hệ thống các sân bay, bến cảng, kho, hệ thống thông tin; gắn kết chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Ba là, thực hiện tốt chính sách thu hút, khuyến khích người dân và các thành phần kinh tế tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo”. Việc coi trọng phát triển kinh tế biển, đảo phải đi đôi với kiểm soát, phục hồi hệ sinh thái biển để phát triển kinh tế biển một cách bền vững. Đồng thời, quan tâm nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo là điểm rất quan trọng, bởi mỗi người dân hoạt động trên vùng biển, đảo là “cột mốc chủ quyền sống” của quốc gia. Mặt khác, phát triển bền vững kinh tế biển, nâng cao đời sống cho nhân dân vùng biển, đảo sẽ bảo đảm ngày càng tốt hơn các nguồn lực, tạo cơ sở quan trọng củng cố, tăng cường tiềm lực QP-AN trên biển. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cấp, ngành, địa phương ven biển quan tâm, ưu tiên đầu tư, xây dựng, phát triển bền vững kinh tế biển, đảo. Chú trọng phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH ven biển, đảo, nhất là hạ tầng nghề cá có tính lưỡng dụng và kết nối đất liền với các đảo; thực hiện tốt công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; đẩy mạnh phát triển các dự án, chương trình đánh bắt xa bờ, bảo đảm các nguồn lực, điều kiện cho người dân yên tâm vươn khơi bám biển; tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế phát huy khả năng, thế mạnh trong tham gia phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

“Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm QP-AN, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ…”.

(Nguồn: Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045)

Bốn là, tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển.

Trong bối cảnh Việt Nam tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực, việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế phát triển bền vững kinh tế biển gắn với nhiệm vụ bảo đảm QP-AN là xu thế tất yếu. Đứng trước những cơ hội và thách thức, để bảo vệ và khai thác nguồn lợi biển một cách hiệu quả, phát triển bền vững kinh tế biển, Việt Nam luôn quan tâm và chú trọng mở rộng hợp tác quốc tế về kinh tế biển, đã thiết lập và mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia về kinh tế, khoa học - công nghệ và bảo vệ môi trường biển, góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự tin cậy chính trị, quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia; từng bước giải quyết các tranh chấp trên biển; tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để phát triển; đồng thời, giúp huy động các nguồn lực cần thiết để phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước ta luôn giữ vững chủ trương “Giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS - 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển”; đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và giữ vững nguyên tắc không thể bác bỏ chủ quyền quốc gia. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã đạt được nhiều thỏa thuận quan trọng với các nước trong khu vực, giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Với chính sách “4 không”, Việt Nam thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng nói chung, công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đây là trách nhiệm thiêng liêng mà lực lượng vũ trang luôn là lực lượng nòng cốt và là minh chứng cụ thể về nhiệm vụ kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với QP-AN trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Thiếu tướng, TS. TRẦN ĐÌNH THĂNG

Cục trưởng Cục Kinh tế/Bộ Quốc phòng

 

 

Bình luận


Họ và tên:                

Email:                       

Nội dung: